Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 4 tháng 1, 2016

Con người Nam Bộ - Diễm Hương và Minh Anh

TÍNH CÁCH NGƯỜI NAM BỘ – MỘT NÉT ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA 
   
Nam Bộ - vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, đất đai màu mỡ, ruộng đồng xanh ngắt, vườn trái cây trĩu nặng quả ngọt nhờ uống nước sông Hậu cuồn cuộn phù sa. Con người Nam Bộ hiếu khách, đôn hậu tính tình cởi mở, nặng nghĩa nhiều tình...Tất cả đã tạo nên nét đẹp, nét văn hóa đặc trưng của người Nam Bộ Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Nét đẹp đó đã được ông cha ta đúc kết, thể hiện đậm nét qua ca dao, dân ca, tục ngữ…với những vần điệu ngọt ngào, sâu lắng.


Cầu khỉ Nam Bộ
Hiếu khách là một trong những nét cá tính độc đáo của người miền Nam. Điều đó được thể hiện đậm nét trong sinh hoạt láng giềng của người Nam Bộ. Thông qua những buổi lễ, tiệc như: đám cưới, đám giỗ, tân gia…Họ đến với nhau vì tình cảm, vì lòng “hiếu khách” của gia chủ. Khi đã là chỗ thân tình họ dễ dàng tâm sự, giãi bày những nỗi niềm sâu kín. Từ những bàn tiệc này mà có khi nảy sinh những quan hệ tình cảm mới như: kết nghĩa thông gia, kết nghĩa tri âm tri kỷ hoặc kết nghĩa anh em... “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Nên khi có bạn bè đến chơi, khách đến nhà, dù gia cảnh có bần hàn đến đâu, họ cũng cố gắng đãi đằng bạn một cách cho tươm tất:
Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người bạn xa.
Cũng chính tâm lý này mà người Nam bộ thường được mọi người cho rằng: Họ có tính hào sảng, hiếu khách, trọng tình nghĩa. Nghèo thì nghèo, lo cho bạn chu đáo cái đã, tiền bạc có xá gì, nhân nghĩa mới là điều trọng.
Không chỉ hiếu khách, tấm lòng người Nam Bộ rất vị tha và đôn hậu được thể hiện qua lối sinh hoạt hàng ngày họ luôn chân tình và dễ hòa mình. Đó cũng là cội nguồn sự hội nhập giao lưu giữa cộng đồng các dân tộc. Ca dao Nam bộ đã sử dụng một lượng lớn các từ Hán Việt, làm nên những vần thanh thoát, mượt mà và vô cùng sang trọng. Chẳng hạn, gặp nhau, chàng trai hỏi cô gái:
Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi
Phụ mẫu ở nhà có mạnh giỏi hay không?
“phụ mẫu” thay thế “cha, mẹ” nhưng vẫn không làm phai đi nét nghĩa của lời hỏi thăm, tấm lòng chân tình, sự quan tâm của chàng trai đối với đấng sinh thành của cô gái. Trái lại còn nâng cao hơn tính trang trọng của lời thăm hỏi
Ngoài tính hiếu khách, tính bộc trực “ăn ngay, nói thẳng” cũng là nét đặc trưng của người Nam Bộ. Khi cần trao đổi vấn đề gì họ cũng đi thẳng vào vấn đề, không nói “vòng vo tam quốc”, nên những từ ngữ, hình ảnh của họ dùng mang tính hình tượng rất cao để dễ diễn đạt ý muốn nói:
Bướm ong bay lượn rộn ràng,
Em nguyền giữ tấm lòng vàng với anh.
Trong ca dao Nam bộ, vàng thường xuất hiện với đá cùng với cách nói nghĩa đá vàng. Ở đây tác giả dân gian không nhằm so sánh giá trị hơn kém giữa chúng mà hướng tới đặc điểm chung của hai loại chất. Đá và vàng đều có khả năng tồn tại lâu dài, bền vững cho nên chúng biểu trưng cho nghĩa sắt son.
Ngay cả trong tình yêu – chuyện khó nói cũng được các chàng trai bày tỏ một cách chân tình, thẳng thắn:
Trắng như bông lòng anh hổng chuộng
Đen như cục than hầm biết làm ruộng anh thương
Đồng Bằng Sông Cửu Long với nền văn minh lúa nước, đời sống nông nghiệp là thế mạnh của người dân nơi đây, “con trâu”, “cái cày”, “mảnh ruộng” …là gia tài của họ. Chàng trai ở đây đã dùng nghệ thuật so sánh nét đẹp người con gái “trắng như bông” với “đen như cục than hầm” nhưng hơn ở cái cách biết “làm ruộng” anh vẫn thương… Người miền Nam trong lịch sử khẩn hoang Nam Kỳ là những người luôn luôn đương đầu với nghịch cảnh, bởi thế họ không có thì giờ để con cà con kê, nếu cần diễn đạt thì nói một cách dứt khoát, ngắn gọn, trực tiếp và rõ ràng.
Sống giữa sông ngòi chằng chịt, tự bao đời nay con người đã gắn bó với sông rạch trong các sinh hoạt thường nhật của mình. Con người Nam bộ đã sáng tạo ra vô số từ ngữ có liên quan đến sông nước. Họ đã mượn hỉnh ảnh con đò, bến sông, dòng nước…để diễn đạt tình cảm của mình:
Nước rong nước chảy tràn đồng
Tơ duyên sẵn có chỉ hồng chưa se
            Tình yêu quê hương, yêu lao động…đã giúp họ vượt những vất vả của cuộc sống cơ cực với tinh thần lạc quan. Ngày ngày lao động trên đồng ruộng, đêm đêm tát nước tưới cây, buôn bán trên sông…nhưng họ vẫn ca hát hoặc hò dối đáp, tình quê mộc mạc nhưng thấm đậm nghĩa tình:
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê

Đất nước ta, mỗi vùng có một cách nói rất riêng trong quá trình giao tiếp. Mặc dù, hệ thống quốc ngữ được dùng chung cho toàn dân, nhưng đến vùng nào thì quốc ngữ lại phát sinh ra nét đặc trưng của vùng đó. Tất cả đã góp phần làm giàu, làm đẹp thêm cho sức sống mãnh liệt kho tàng ngôn ngữ Nam Bộ

Tính cách Nam bộ vẫn là tính cách Việt Nam, vẫn là những con người yêu nước, chân tình, hiếu khách, đôn hậu, vị tha. Tìm hiểu về tính cách họ giúp  chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về đặc tính của vùng đất và con người Nam bộ và cũng là để thêm yêu mảnh đất này.

Kho tàng dân ca Nam Bộ - Kim Ngân

Dân ca Nam Bộ - một kho tàng âm điệu dân gian phong phú

Nói đến nghệ thuật ca hát dân gian cổ truyền Nam Bộ mà chỉ đóng khung trong một số làn điệu vọng cổ hay bài bản cải lương, ca nhạc tài tử, thì quả chưa đầy đủ. Mặc dầu chúng ta không phủ nhận tính hấp dẫn, yếu tố truyền cảm gây xúc động mạnh của các thể loại ca hát đó, nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu mà xem xét, thì sự phiến diện nói trên có thể đưa đến những nhận định không toàn diện, và hiện tượng nhầm lẫn giữa ngọn và gốc có thể xảy ra. Nội dung vấn đề trao đổi của bài viết này nhằm tìm hiểu tính chất phong phú của nền dân ca Nam Bộ, một bộ phận trong kho tàng âm điệu dân gian phong phú và quíy bàu của đất nước ta. Nói đến Nam Bộ, chúng ta nghĩ đến một vùng đất màu mỡ có phong cảnh thiên nhiên xinh đẹp hữu tình, có tài nguyên giàu có, trù phú. Không thể quên được con người Nam Bộ với tính tình cởi mở, hào hiệp, nặng nghĩa nhiều tình... mà hình như đất nước thiêng liêng đã dành riêng cho mảnh quê phương Nam này! Từ Đồng Nai, Long Khánh, Biên Hòa, Đất Đỏ... với những lô cao su thẳng tắp, bạt ngàn, sừng sững hiên ngang... như muốn vươn lên hàng triệu cánh tay xanh biếc, rậm dày... che kín cả khoảng trời mênh mông... chúng ta đi dần xuống miền châu thổ Cửu Long với những cái tên nghe "là lạ" "dễ thương" như: Mỹ Tho, Bến Tre, Long Xuyên, Cần Thơ, Rạch Giá... băng qua những "tấm thảm vàng tươi" đang óng ánh trĩu cành phơi mình dưới ánh nắng chói chang của miền gấn xích đạo. Sau đó, chúng ta sẽ được nhẹ nhàng, ung dung khua từng nhịp chèo nhặt khoan trên những dòng kênh lăn tăn gợn sóng, dưới những rặng dừa xanh vào những buổi chiều êm đẹp... rồi để có dịp bâng khuâng nghe những câu hò về đêm ngân vang dòng sông, bến nước... Và khi tới tỉnh Minh Hải lắm cá nhiều tôm, đặt chân lên mũi Viên An, mỏm đất tận cùng của quê hương phương Nam... nghe biển Đông sóng vỗ quanh năm, một lần nữa, chúng ta càng được khẳng định thêm về khả năng vĩ đại chính phục thiên nhiên, cải tạo hiện thực của con người trước bao nhiên biế cố. Phải chăng phong cảnh thiên nhiên của thực tại vốn tràn đầy thơ mộng, nên càng khơi nguồn âm điệu dạt dào cho dân ca Nam Bộ giàu chất trỡ tình, đậm màu thi vị... chắp cánh cho những hoài bão

Chúng ta hãy làm quen với một đoạn hò tâm tình: ... hò ơi!... Nho nhỏ như ai, chớ còn nho nhỏ như em đây luôn chặt dạ bền lòng. Dẫu cho nước Đồng Nai có chảy cạn, đá Đồng Nai có bị mòn, thì thủy chung như nhứt, trước sau em vẫn giữ sắt son lời nguyền... ơ (Hò miền Đông Nam Bộ) Hay những lời "oán trách" nhau trong điệu hò Trà Vinh: Hò ơi... Tay cắt tay bao nỡ... ruột cắt ruột sao đành! Một lời thề biển cạn non xanh. Chim kêu dưới suối, vượn hú trên nhành, qua không bỏ bậu ơ ơ... mà sao bậu đành bỏ qua ơ ơ... Cũng như tên nhiều miền của đất nước, hò là một điệu dân ca phổ biến ở Nam Bộ nói riêng. Hò được gắn liền với sông nước, với khung cảnh êm ả, phẳng lặng. Với một âm hưởng phóng khoáng, tự do, mang ít nhiều nhân tố "tự sự", "vịnh thán", hò thường được dùng để ngợi ca hay đề cao một đạo lý tốt đẹp nào đấy như lòng chung thủy sắt son, niềm tin yêu chặt dạ bền lòng... Âm điệu của các thể loại hò ở từng địa phương thường không giống nhau về chi tiết luyến láy, về các xử lý các "âm điệu" giữa câu, hay có đôi khi cũng khác nhau về kết cấu toàn bộ. Thí dụ như, hò Đồng Tháp thì kết ở một nốt thuộc "át âm", nhưng trong lúc đây, tuy cùng một điêu thức "xon", nhưng hò Miền Đông, hò Bạc Liêu, hò Gia Ninh, thì lại dùng nốt chủ âm để kết hoàn toàn. Việc xử lý kếu cấu này tùy thuộc vào phong cách, vào nội dung của từng vùng, nhằm thể hiện được tính cách riêng biệt, màu sắc độc đáo, chứ không phải là không có dụng ý. Thông thường do ý nghĩa của nội dung lời hò giữ vai trò quyết định, nên giai điệu của hò này được tiến hành theo đường nét bình ổn, "lên dần" hoặc "xuống dần", cố tránh những bước nhảy quãng đột xuất, nhằm tạo ra một phong vị êm đềm, nhẹ nhàng như kiểu "ngân nga, tự sự", nặng đi vào chiều sâu lắng hơn là ầm ĩ, huyên náo. Hoàn cảnh xã hội ngày càng thay đổi, nên nội dung và hình thức hò cũng được cải biên và bổ sung cho thích hợp. Ví dụ như, khi Mặt trận Bình dân bên Pháp chiếm được nhiều thắng lợi trênn địa hạt chính trị, thì ở Nam Bộ, kế bên những loại hò mộc, hò huê tình, hò đối, hò thơ, hò truyện... lại xuất hiện thêm một loại hò gọi là hò quốc sự. Nội dung hò quốc sự đề cập đến những vấn đề chính trị cổ vũ và động viên tinh thần yêu nước của quần chúng. Sau đây là một đoạn của hò quốc sự. Nữ (vấn): Hò ơi ! Trên đời mọi vật bẩn nhơ Đều nhờ rửa nước trở nên trong lành Đến khi nước phải nhơ tanh Lấy gì mà rửa xin anh phân cùng... Nam (đáp): Hò ơi ! Em ơi trải bao thế hệ oai hùng Nước nhà lâm nạn anh hùng ra tay Hi sinh bao quản thân dài Máu đào từng rửa, "nước" rày thành trong... Nội dung lới của hò phần lớn dựa trên cơ sở của lối thơ lục bát, nhưng khi xử lý thì có thể giữ nguyên, hoặc có khi lại mở rộng dài hơn để khớp với âm điệu của câu hò. Vì thế việc sáng tác ra những câu hò được đông đảo quần chúng tham gia dễ dàng và nhanh chóng thu hút được sự hâm mộ của quần chúng. Về tháng bảy âm lịch, thường là mùa cấy rộ và cũng là lúc mà các "vạn" cấy (như phường, hội) được có dịp trổ tài vừa cấy giỏi lại vừa hò hay... và dĩ nhiên sau những lần gặp gỡ, biết mặt... biết tài nhau... là đến những lời hò hẹn cho những ngày sau mùa gặt hái... Kế bên những điệu hò trữ tình, êm dịu, dân ca Nam Bộ còn bao gồm những bài hát lý (hay là nhữngđiệu lý). Lý là những khúc hát ngắn gọn, vui tươi, dí dỏm, mang tính chất lạc quan yêu đời rõ nét với các dịp điệu phong phú và sinh động. Như bài Lý ngựa ô (Nam Bộ): Lý con ngựa... ngựa ô (2 lần) Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen Búp sen lá đậm - Dây cương đầm thấm Cán roi anh bịt đồng thà... Lá anh í a đưa nàng... là anh đưa nàng về dinh (2 lần) ... Nhưng cũng có khi, lý lại được pha lẫn vào chút ít màu sắc trữ tình man mác như bài Lý lu là: Ai về giòng dứa mà qua truông Nhắn thăm lu là với bậu ơ bậu ơi ! Bỏ buồn cho nàng ơi ! mà cho ai ? Bỏ buồn cho nàng ơi ! mà cho anh ! Xét về phương diện âm hưởng nói chung toát ra từ các điệu hò và Lý Nam Bộ, chúng ta rút ra được chất tinh khiết, chân thật, tuy mộc mạc, pha lẫn chút in âm điệu mênh mông của hò, với nhịp điệu sinh động, vui phơi phới đầy tươi mát của các điệu lý. Đặc biệt về mặt kết cấu, lý cũng có những phân biệt câu cú, khúc, đoạn rõ ràng. Sự trình bày phần âm điệu được mạch lạc, có tính nhất quán toàn bộ, và dễ phát hiện, không cầu kỳ, phức tạp, ngổn ngang. Cách vận dụng và xử lý các hệ thống điệu thức dân gian 5 cung hoặc 7 cung, hoặc 5 cung có thêm bớt bất thường trong thể loại lý, càng tạo thêm được nhiều sắc thái về giọng điệu, càng làm phong phú thêm, mở rộng ra nhiều khả năng kết hợp chặt chẽ giữa âm điệu và ngôn ngữ. Hiện nay, theo chỗ chúng tôi được biết thì các cơ sở nghiên cứu đã sưu tầm và chỉnh lý hơn 40 điệu lý như: Lý con sáo, Lý giao duyên, Lý cây bông, Lý chúc rượu, Lý chia tay, Lý cây gòn, Lý con chuột, Lý bình vôi v.v... Mỗi điệu lý nói trên đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản xuất (như Lý đất dòng chẳng hạn), hoặc ca ngợi những đức tính tốt trong cuộc sống (như Lý Ba Tri), cái đẹp trong thiên nhiên (Lý cây xanh) hoặc oán trách nhau (như Lý lu là) hoặc mỉa mai, châm biếm bọn lý trưởng, cường hào (như Lý con chuột, Lý bình vôi, Lý con sam). Các chủ đề nhạc trong các điệu lý rất nhiều vẻ, dưới những hình thức rất độc đáo, nhưng lại rất quen thuộc với phong vị cổ truyền của quần chúng từ lâu đời. Trong quá trình cải biên, bổ sung, dĩ nhiên có một số chủ đề trong các điệu lý được sáng tạo, nâng cao. Trong số ấy, chúng ta có thể lấy bài Ru con làm ví dụ. Từ bái Lý giao duyên của vùng Trị Thiên, bài Lý giao duyên của Nam Bộ đã tiến lên trong một quá trình hoàn chỉnh hơn dưới một tựa đề mới là Ru con. Đó cũng là một quy luật, một đặc điểm cần lưu ý khi nghiên cứu vốn dân gian cổ truyền để chúng ta phân biệt được tính giao lưu và tính bổ sung đổi mới luôn luôn của nó. Lời bài hát Ru con, dân ca Nam Bộ: Gió mùa thu... Mẹ ru con ngủ Năm canh chầy thức đủ vừa năm Hỡi chàng... chàng ơi ! Hỡi người... người ơi ! Em nhớ tới chàng... Em nhớ tới chàng ! Hãy nín ! nín đi con ! Hãy ngủ ! ngủ đi con ! Con hời... con hỡi... Con hỡi... con hời... hỡi con !... Toàn bộ nội dung của bài hát được diễn tả trong sáu câu. Chỉ với 6 câu thôi, nhưng cũng đủ để vẽ nên một "bức tranh âm thanh" tuyệt diệu: ..."Giữa một đêm thu tĩnh mịch... lắng nghe từng cơn gió lành lạnh nhẹ lướt ngoài khung cửa... người mẹ trẻ ấy... vừa ru con, vừa nghĩ đến người thương... vừa nghĩ đến người thương, vừa ru con!...". Âm điệu đơn giản, lời lẽ ngắn gọn, cô đọng đến mức không thể nào thêm được vào đấy một nốt hay một chữ nào nữa cả... Sự kết hợp như hình với bóng của âm điệu và lời ca đã thúc đẩy thêm nhanh chóng sự gần gũi giữa hình tượng nghệ thuật và quần chúng. Có những lúc, chúng ta như nghe được cả những nức nở, nghẹn ngào... đang trào lên từng đợt, từng đợt như: Hãy nín ! nín đi con Hãy ngủ ! ngủ đi con ! Con hời.. con hỡi Toàn bộ bài hát được kết thúc bằng một sự đóng lại thư thả trên đường nét đi xuống của giai điệu chậm rãi... nhỏ dần... và chấm dứt... nhưng chúng ta như vẫn còn thấy đọng lại đâu đây hình ảnh

Cách biểu diên - Phương Khanh

          Cách biểu diễn, nghệ thuật biểu diễn đờn ca tài tử

Bởi là một dòng nhạc có xuất phát từ cung đình do đó cách biểu diễn đờn ca tài tử khá đặc biệt và đòi hỏi người nghệ sĩ phải có tài năng, trình độ thực sự. Tại Việt Nam có 3 loại hình nghệ thuật có xuất xứ từ nhạc cung đình đó là Nhã nhạc Huế, Ca trù và Đờn ca tài tử. Nhưng khác với 2 loại hình Nhã nhạc và Ca trù người hát chính thường là nữ, trong nghệ thuật đờn ca thì nam và nữ có vai trò bình đẳng, người đàn và người hát có vị trí tương đương nhau.
Dàn nhạc của đờn ca tài tử có nhiều nhạc cụ hơn dàn nhạc của Ca trù và ca Huế. Trước đây, dàn nhạc đờn ca tài tử sử dụng các loại nhạc cụ gồm đàn kim, đàn cò, đàn tranh song lang, ống tiêu. Khoảng từ năm 1920, lục huyền cầm ( đàn ghi ta ), hạ uy cầm và violon cũng được thêm vào trong dàn nhạc.
Cũng bởi lý do xuất phát từ cung đình do đó đờn ca xưa kia chủ yếu được biểu diễn trong các tư gia hoặc phục vụ 1 số ít khán giả. Tuy nhiên theo thời gian và sức hấp dẫn của dòng nhạc này mà ngày nay đờn ca đã được sân khấu hóa để biểu diễn phục vụ công chúng.
Khi biểu diễn nhạc tài tử, các nghệ sĩ thường chú trọng đến sự kết hợp của nhạc cụ có âm sắc khác nhau, ít thấy có sự kết hợp giữa các nhạc cụ cùng âm sắc. Thường thấy nhất là song tấu đàn kim và đàn tranh, là sự kết hợp giữa tiếng tơ và tiếng sắt, mà theo các chuyên gia thì được gọi là sắt cầm hảo hiệp. Cũng có khi là tam tấu đàn kim – tranh – cò, kim – tranh – độc huyền, tranh – cò – độc huyền mà giới  chuyên gia gọi là tam chi liên hoàn pháp. Nếu một ban nhạc tài tử có 3 nhạc công và 1 ca sĩ thì được gọi là ban tứ tuyệt, nếu có 4 nhạc công và 1 ca sĩ thì được gọi là ban ngũ nguyệt.
Vì đờn ca tài tử đặc biệt ở chỗ thường được biểu diễn ngẫu hứng, dựa trên bản nhạc gốc truyền thống, người hát cải biên đi theo cách riêng của mình. Sự khác biệt này khiến cho người nghe luôn cảm thấy mới lạ dù nghe cùng một bài..
Phần hay nhất trong tài tử là ở phần rao của người đàn và nói lối của người ca. Người đàn dùng rao – người ca dùng lối nói – để lên dây đàn và gợi cảm hứng cho bạn diễn, tạo không khí cho dàn tấu. Ngoài ra khi trình diễn các nghệ sĩ có thể dùng tiếng đàn của mình để “ đối đáp” hoặc “thách thức” với người đồng diễn. Đây cũng là điểm tạo sự mới lạ, hấp dẫn, cuốn hút của loại hình nghệ thuật dân tộc này.


          Các bài bản của nghệ thuật đờn ca

Đờn ca tài tử có một số lượng bài bản rất phong phú và đa dạng. Ngoài việc sử dụng một số bài bản trong nhạc lễ, còn có các bài từ ca Huế, dân ca miền Trung, miền Nam, và một số lượng lớn do các nghệ nhân bậc thầy sáng tác và cải biên.
Do đặc tính ngôn ngữ và sinh hoạt riêng của người miền Nam mà nhạc miền Trung được phát triển đặc biệt trong nhạc tài tử. Một số bài nổi tiếng được nhiều người biết đến như: bài Bình Đán của ca Huế được phát triển thành Bình Đán Văn trong nhạc tài tử, Lưu Thủy của Huế được cải biên thành Lưu Thủy Đoàn, Kim Tiền Huế thành Kim Tiền Bản…
Về bài bản của đờn ca tài tử thì có nhiều nhưng đa số các bậc thầy của đờn ca và các chuyên gia cho rằng đờn ca có 20 bài tổ được gọi là “nhị thập huyền tổ bản” thuộc hai điệu Bắc và điệu Nam. Trong 20 bản tổ có 7 bản lễ, 6 bản Bắc, 3 bản Nam và 4 bản Oán. Tương truyền rằng các bài bản này do ông bà Ba Đợi đúc kết và được xem như là những bài căn bản cho những người bắt đầu bước vào nghệ thuật đờn ca tài tử. Từ năm 1945, ông Nguyễn Văn Thịnh thường được gọi là ông Giáo Thịnh – một nhạc sư có uy tín tại Sài Gòn đã đúc kết và phổ biến một hệ thống mới gọi là 72 bài bản cổ nhạc miền Nam được gọi là thất thập nhị huyền công. Theo đó một nghệ nhân sẽ được coi là bậc thầy nếu biết hết 20 bài bản tổ và để đạt được mức cao hơn nghệ nhân đó cần biết hết 72 bài bản cổ miền Nam.

Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ của Việt Nam được Unesco công nhận theo các tiêu chí: Đây là loại hình nghệ thuật do cộng đồng 21 tỉnh thành miền Nam Việt Nam cùng nhau tạo ra. Đờn ca tài tử là một phần bản sắc của người dân phía Nam và được trao truyền từ đời này qua đời khác, được đảm bảo tính tiếp nối liên tục.

Đờn Ca Tài Tử Miền Nam - Phương Khanh

Dân ca dân nhạc VN – Đờn Ca Tài Tử Miền Nam

Đờn Ca Tài Tử Miền Nam là một dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và là một danh hiệu UNESCO ở Việt Nam có vùng ảnh hưởng lớn, với phạm vi 21 tỉnh thành phía Nam Việt Nam.
Đờn ca tài tử hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19, bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế và văn học dân gian. Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của miền Nam Việt Nam. Đây là một loại hình nghệ thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên nam nữ nông thôn miền Nam ca hát sau những giờ lao động.


Đờn ca tài tử xuất hiện hơn 100 năm trước, là loại hình diễn tấu có ban nhạc gồm 4 loại là đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu (gọi là tứ tuyệt), sau này, có cách tân bằng cách thay thế độc huyền cầm bằng cây guitar phím lõm. Những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau. Họ tập trung lại để cùng chia sẻ thú vui tao nhã nên thường không câu nệ về trang phục.
 Loại âm nhạc này đúng ra là một loại nhạc thính phòng thường trình diễn trong phạm vi không gian tương đối nhỏ như trong gia đình, tại đám cưới, đám giỗ, sinh nhật, trong các lễ hội, sau khi thu hoạch mùa vụ, thường được biểu diễn vào những đêm trăng sáng ở xóm làng. Nguồn gốc của nhạc tài tử là ca Huế.
 Loại nhạc này mang đậm tính cách giải trí vui chơi chứ không thuộc loại nhạc lễ.

Nhạc cụ trong “Đờn ca tài tử” gồm đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn kìm, đàn cò, đàn tam, sáo thường là sáo bảy lỗ (phụ họa). Trong bộ môn này có một loại đàn mới do các nghệ nhân Việt Nam cải biến là Guitar phím lõm. Loại nhạc cụ này được khoét lõm các ngăn sao cho khi đánh lên nghe giống nhạc cụ Việt Nam nhất (âm cao).
Ban nhạc thường dùng năm nhạc cụ, thường được gọi là ban ngũ tuyệt gồm đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn kìm, đàn cò, và đàn tam. Phụ họa thêm là tiếng sáo thường là sáo bảy lỗ.
Đờn ca tài tử sử dụng dụng cụ như đàn cò, đàn nguyệt, đàn tranh, song lan (nhạc cụ bằng gỗ để gõ nhịp) hoặc cả Ghita lõm.
Về trang phục, những người tham gia đờn ca tài tử phần nhiều là bạn bè, chòm xóm với nhau nên thường chỉ mặc các loại thường phục khi tham gia trình diễn. Khi nào diễn ở đình, miếu hoặc trên sân khấu họ mới mặc các trang phục biểu diễn.
Những năm gần đây nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch nên các nhóm nhạc tài tử hợp lại với nhau thành các câu lạc bộ đờn ca tài tử mang tính bán chuyên nghiệp. Bên cạnh nghề nghiệp chính, họ phục vụ văn nghệ khi có yêu cầu.
                    Các nhạc cụ dung trong đờn ca tài tử:

Đàn bầu

Đàn bầu, tên chữ là độc huyền cầm, là loại đàn một dây của người Việt, gảy bằng que hoặc miếng gảy. Đàn có hai loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.

Đàn nguyệt (đàn kìm)

Đàn nguyệt tức nguyệt cầm, trong Nam còn gọi là đàn kìm. Loại đàn này có hộp đàn hình tròn như Mặt Trăng nên mới có tên là "đàn nguyệt". Theo sách xưa thì đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây[cần dẫn chứng]. Sách của Phạm Đình Hổ thì ghi rằng đàn nguyệt xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 18.

Đàn nhị (đàn cò)

Đàn nhị (ở miền nam Việt Nam gọi là đàn cò) là nhạc cụ có cung vĩ, xuất hiện từ lâu ở Việt Nam. Ngoài người Kinh, nhiều dân tộc khác cũng sử dụng rộng rãi nhạc cụ này (Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao, Giáy, H’Mông...). Họ gọi đàn nhị bằng cái tên khác nhau.

Đàn tam

Đàn tam là nhạc cụ Việt Nam có 3 dây (tam là 3). Trước đây người ta thường dùng nhạc cụ này trong dàn nhạc bát âm, ngày nay phần lớn các dàn nhạc đều có đàn tam với đủ loại kích cỡ, từ nhỏ, vừa đến lớn và cả loại đàn tam âm trầm, hòa điệu với những nhạc cụ âm trầm khác trong dàn nhạc.

Đàn tam thập lục


Tam thập lục là nhạc khí dây, chi gõ của âm nhạc dân gian Việt Nam. Đàn có 36 dây nên được gọi là Tam Thập Lục. Tuy nhiên ngày nay một số nghệ nhân đã cải tiến đàn này bằng cách mắc thêm nhiều dây nữa để đánh được nhiều âm hơn, kể cả những âm nửa cung.

Mõ được xếp là một nhạc khí tự thân vang, phổ biến ở Việt Nam. Trên thực tế mõ được sử dụng vào các môi trường khác nhau và có những chức nǎng khác nhau.

Phách

Phách là nhạc cụ gõ, xuất hiện trong nhiều thể loại ca, múa nhạc ở Việt Nam từ lâu đời. Phách có nhiều loại và tên gọi khác nhau. Trong hát xẩm phách gọi là cặp kè; trong cải lương và dàn nhạc tài tử phách là song lang; trong ca Huế phách là sênh, còn trong dàn nhạc tuồng, đám ma, múa tôn giáo và múa dân gian người ta mới gọi là phách...

Sáo ngang

Sáo là nhạc cụ thổi hơi có từ thời kỳ cổ đại, rất nhiều nước trên thế giới sử dụng sáo với nhiều hình dáng và cấu tạo có thể khác nhau. Ở Việt Nam sáo ngang rất thông dụng và có nhiều loại.

Sinh tiền

Sinh tiền là nhạc cụ gõ độc đáo, xuất hiện ở Việt Nam ít nhất vài trăm năm nay. Tên cổ của nó là phách sâu tiền hay phách quán tiền. Ngày nay có người gọi là sênh tiền. Nhìn chung, nhạc cụ này là một loại sinh có gắn những đồng tiền vào nên gọi là sinh tiền.

Song loan


Song loan là một loại mõ nhỏ bằng gỗ cứng hình tròn dẹt dùng để giữ nhịp trong dàn nhạc.

Dân ca Nam Bộ - Phương Khanh

                 Đôi nét về dân ca Nam Bộ


Nói đến Nam Bộ, chúng ta nghĩ ngay đến một vùng đất màu mỡ có phong cảnh thiên nhiên xinh đẹp hữu tình, có tài nguyên trù phú. Ta không thể quên được con người Nam Bộ với tính khí hào hiệp, cởi mở, nặng nghĩa nhiều tình…mà hình như đất nước thiêng liêng đã dành riêng cho mảnh quê phương Nam này! Và, những lời ca, điệu hát dân gian đã phần nào thể hiện được sự giàu đẹp của đất, của người nơi đây.

     Nói đến nghệ thuật ca hát dân gian cổ truyền Nam Bộ mà chỉ đóng khung trong một số làn điệu vọng cổ hay bài bản cải lương, ca nhạc tài tử, thì quả chưa đầy đủ. Mặc dầu chúng ta không phủ nhận tính hấp dẫn, yếu tố truyền cảm gây xúc động mạnh của các thể loại ca hát đó, nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu mà xem xét, thì sự phiến diện nói trên có thể đưa đến những nhận định không toàn diện, và hiện tượng nhầm lẫn giữa ngọn và gốc có thể xảy ra. Nội dung vấn đề trao đổi của bài viết này nhằm tìm hiểu tính chất phong phú của nền dân ca Nam Bộ.
     Chúng ta hãy làm quen với một đoạn hò tâm tình:
     ... hò ơi!... Nho nhỏ như ai, chớ còn nho nhỏ như em đây luôn chặt dạ bền lòng. Dẫu cho nước Đồng Nai có chảy cạn, đá Đồng Nai có bị mòn, thì thủy chung như nhứt, trước sau em vẫn giữ sắt son lời nguyền... ơ
(Hò miền Đông Nam Bộ)

     Hay những lời "oán trách" nhau trong điệu hò Trà Vinh:
Hò ơi... Tay cắt tay sao nỡ... ruột cắt ruột sao đành! Một lời thề biển cạn non xanh. Chim kêu dưới suối, vượn hú trên nhành, qua không bỏ bậu ơ ơ... mà sao bậu đành bỏ qua ơ ơ..
.
     Cũng như tên nhiều miền của đất nước, hò là một điệu dân ca phổ biến ở Nam Bộ nói riêng. Hò được gắn liền với sông nước, với khung cảnh êm ả, phẳng lặng. Với một âm hưởng phóng khoáng, tự do, mang ít nhiều nhân tố "tự sự", "vịnh thán", hò thường được dùng để ngợi ca hay đề cao một đạo lý tốt đẹp nào đấy như lòng chung thủy sắt son, niềm tin yêu chặt dạ bền lòng... Âm điệu của các thể loại hò ở từng địa phương thường không giống nhau về chi tiết luyến láy, về cách xử lý các "âm điệu" giữa câu, hay có đôi khi cũng khác nhau về kết cấu toàn bộ. Thí dụ như: hò Đồng Tháp thì kết ở một nốt thuộc "át âm", nhưng trong lúc đây, tuy cùng một điêu thức "xon", nhưng hò Miền Đông, hò Bạc Liêu, hò Gia Ninh, thì lại dùng nốt chủ âm để kế thoàn toàn.

     Việc xử lý kếu cấu này tùy thuộc vào phong cách, vào nội dung của từng vùng, nhằm thể hiện được tính cách riêng biệt, màu sắc độc đáo, chứ không phải là không có dụng ý. Thông thường do ý nghĩa của nội dung lời hò giữ vai trò quyết định, nên giai điệu của hò này được tiến hành theo đường nét bình ổn, "lên dần" hoặc "xuống dần", cố tránh những bước nhảy quãng đột xuất, nhằm tạo ra một phong vị êm đềm, nhẹ nhàng như kiểu "ngân nga, tự sự", nặng đi vào chiều sâu lắng hơn là ầm ĩ, huyên náo.
      Hoàn cảnh xã hội ngày càng thay đổi, nên nội dung và hình thức hò cũng được cải biên và bổ sung cho thích hợp. Ví dụ như, khi Mặt trận Bình dân bên Pháp chiếm được nhiều thắng lợi trên địa hạt chính trị, thì ở Nam Bộ, kế bên những loại hò mộc, hò huê tình, hò đối, hò thơ, hò truyện... lại xuất hiện thêm một loại hò gọi là hò quốc sự. Nội dung hò quốc sự đề cập đến những vấn đề chính trị cổ vũ và động viên tinh thần yêu nước của quần chúng. Sau đây là một đoạn của hò quốc sự.
...
     Nội dung lớn của hò phần lớn dựa trên cơ sở của lối thơ lục bát, nhưng khi xử lý thì có thể giữ nguyên, hoặc có khi lại mở rộng dài hơn để khớp với âm điệu của câu hò. Vì thế việc sáng tác ra những câu hò được đông đảo quần chúng tham gia dễ dàng và nhanh chóng thu hút được sự hâm mộ của quần chúng.
     Kế bên những điệu hò trữ tình, êm dịu, dân ca Nam Bộ còn bao gồm những bài hát lý (hay là những điệu lý). Lý là những khúc hát ngắn gọn, vui tươi, dí dỏm, mang tính chất lạc quan yêu đời rõ nét với các nhịp điệu phong phú và sinh động.
Như bài Lý ngựa ô (Nam Bộ).
Nhưng cũng có khi, lý lại được pha lẫn vào chút ít màu sắc trữ tình man mác như bài Lý lu là.
 Xét về phương diện âm hưởng nói chung toát ra từ các điệu hò và Lý Nam Bộ, chúng ta rút ra được chất tinh khiết, chân thật, tuy mộc mạc, pha lẫn chút ít âm điệu mênh mông của hò, với nhịp điệu sinh động, vui phơi phới đầy tươi mát của các điệu lý.
   Mỗi điệu lý nói trên đều có một nội dung rõ rệt, hoặc phổ biến những kinh nghiệm sản xuất (như Lý đất giồng chẳng hạn), hoặc ca ngợi những đức tính tốt trong cuộc sống (như Lý Ba Tri), cái đẹp trong thiên nhiên (Lý cây xanh) hoặc oán trách nhau (như Lý lu là) hoặc mỉa mai, châm biếm bọn lý trưởng, cường hào (như Lý con chuột, Lý bình vôi, Lý con sam). Các chủ đề nhạc trong các điệu lý rất nhiều vẻ, dưới những hình thức rất độc đáo, nhưng lại rất quen thuộc với phong vị cổ truyền của quần chúng từ lâu đời.


     Dân ca là một mảnh đất trù phú, một kho tàng âm điệu vô tận, nơi tập trung của tất cả những nhân tố thể hiện trực tiếp nhất, sinh động nhất tính cách dân tộc của một địa phương hay một dân tộc nào đó. Vì thế, tìm hiểu được kho tàng quý báu ấy đã là một chuyện không dễ, nhưng cái khó hơn hết, cái quyết định hơn hết là cần phải biết gạn đục, khơi trong, phải biết chọn lọc, lấy ra cái gì "tinh" nhất để phục vụ tốt cho cái hiện tại. Đó là vấn đề rất thiết yếu mà các nhạc sĩ nghiên cứu, sáng tác, biểu diễn, huấn luyện, không riêng cho một địa phương nào, đều nhận thấy trách nhiệm của mình trước nhân dân trong việc xây dựng một nền văn học nghệ thuật tiên tiến có tính chất dân tộc và tính nhân dân sâu sắc.

Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2016

Dân ca Nam Bộ

     Dân ca Nam Bộ
Định nghĩa:
Dân ca là những bài hát ngắn gọn,mộc mạc không có tác giả,được sáng tác do nhu cầu sinh hoạt,từ cuộc sống của người dân và được phổ biến bằng truyền khẩu từ đời này sang đời khác,từ vùng này sang vùng khác.
Âm điệu, phong cách và bản sắc:
      Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với nền văn hóa lâu đời,do đó dân ca Việt Nam thật phong phú
      Dân ca của mỗi nước,mỗi dân tộc hay của mỗi vùng,mỗi miền đều có âm điệu,phong cách riêng biệt.

Khái quát về dân ca Nam Bộ:
Nam Bộ có địa hình bằng phẳng,khí hậu hiền hòa, thiên nhiên tương đối ưu đãi,cuộc sống dễ chịu.Người Nam Bộ có nếp sống đơn giản,phong cách sống rộng rãi,phóng khoáng,tính cách bộc trực,mộc mạc,lởi xởi…
      Dân ca cũng mang đậm phong cách người Nam Bộ:ca từ mộc mạc,giàu tình cảm,chân thực,hồn nhiên,giai điệu gắn liền với âm điệu tiếng nói địa phương,tiết tấu rõ ràng,gẫy gọn,nhịp độ từ vừa phải đến nhanh…
      Lối phát âm Nam Bộ phân biệt rõ các dấu thanh trừ dấu hỏi và dấu ngã thường không chính xác ở các phụ âm cuối,thể hiện rất rõ trong hầu hết các làn điệu dân ca.
Các thể loại dân ca Nam Bộ :
1.  Lý:
Ø Lý là một bài hát ngắn gọn,mộc mạc.Chữ lý ở đây là chỉ một thể loại trong dân ca.
Ø  Lý là một loại dân ca đặc sắc của Việt Nam. Lý có cả ở 3 miền Bắc,Trung,Nam của Việt Nam,nhưng có lẽ lý phát triển mạnh nhất ở Nam Bộ và thể loại này chiếm tỉ lệ lớn trong dân ca Nam Bộ
Ø  Lý Nam Bộ được sinh ra phần lớn từ những câu ca dao,có nhiều làn điệu được sáng tác cùng dựa trên một câu ca dao nên rất phong phú về số lượng cũng như làn điệu.
Ø  Nội dung của lý thể hiện mọi khía cạnh,hiện tượng của cuộc sống,đề cập đến những quan hệ xã hội,quan hệ cộng đồng,thái độ phê phán những thói hư tật xấu trong dân gian
Ø  Lý Nam Bộ có hệ thống tiếng đệm lót,đệm phụ nghĩa,láy đưa hơi….phong phú.Đó cũng là nghệ thuật phát triển ca dao thành dân ca của lý.
2.  Hò:
      Hò là một lối hát,thường được hát trong quá trình lao động.Nhịp điệu của điệu hát rất gần với nhịp điệu của động tác khi làm việc.Là điệu hát xướng,có khi đồng xướng,có khi đơn xướng,có hoặc khong có xô,và có khi có đối đáp.Người xướng được gọi là hò cái,người xô được gọi là hò con.

      Hò là loại hình ca hát dân gian được ưa chuộng ở Nam Bộ.Phần lớn tính chất âm nhạc trữ tình,tâm tình,ít mang dáng dấp của đông tác lao động.